Trong bệnh lý ngoại tháp, hội chứng Parkinson có một vị trí quan trọng vì liên quan đến nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể chia ra bốn nhóm lớn: hội chứng Parkinson nguyên phát, thoái hóa nhiều hệ, hội chứng Parkinson di truyền và hội chứng Parkinson thứ phát. Trong bài này, chúng tôi đề cập đến một nhóm nguyên nhân trong hội chứng Parkinson thứ phát thường là do mạch máu. Bài viết nêu ra cách phân biệt hội chứng Parkinson chỉ là thể nhỏ của bệnh parkinson.
>>> Thuốc mới điều trị bệnh parkinson
NGUYÊN NHÂN CỦA HỘI CHỨNG PARKINSON
Ngoài quá trình thoái hóa thần kinh nguyên phát, hội chứng Parkinson thường kết hợp với nhiều nguyên nhân bao gồm một số cơ chế mạch máu. Vấn đề này đã được Critchley M đề cập đến từ năm 1929 trong bài “Hội chứng Parkinson do vữa xơ động mạch” để phân biệt với bệnh Parkinson nguyên phát. Năm 1987, Thompson PD và Marsden CD cho rằng bệnh Binswanger (còn có tên là bệnh não vữa xơ dưới vỏ) có đặc điểm là các động mạch não bị dầy lên và hẹp lại cũng dẫn tới tổn thương chất trắng và sa sút trí tuệ gặp ở người cao tuổi gây rối loạn dáng bộ và được coi là “ Hội chứng Parkinson nửa thân dưới”. Từ đó thuật ngữ “Hội chứng Parkinson do mạch máu” được dùng để mô tả bệnh cảnh lâm sàng có đặc điểm là rối loạn dáng bộ kết hợp với sinh bệnh học mạch máu chủ yếu ở chất trắng dưới vỏ. Mặt khác một số tổn thương não do nguyên nhân sinh bệnh học mạch máu ngoài tổn thương chất trắng như thiếu máu não vùng thân não cũng có thể dẫn đến hội chứng Parkinson. Còn có một số nguyên nhân mạch máu khác không do vữa xơ cũng có thể kết hợp với hội chứng Parkinson tuy nhiên y văn vẫn đặc biệt chú ý tới bệnh chất trắng ở não và/hoặc các ổ khuyết có nguồn gốc vữa xơ là liên quan mật thiết đến phần lớn các trường hợp hội chứng Parkinson do mạch máu.
BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CỦA NGƯỜI MẮC HỘI CHỨNG PARKINSON
Các nghiên cứu giải phẫu bệnh cho biết khoảng 3 -5% các bệnh nhân mắc bệnh Parkinson nguyên phát là hội chứng Parkinson do mạch máu ( Jellingger KA ( 2003). Tuổi khởi bệnh tương tự hoặc hơi cao hơn bệnh Parkinson nguyên phát và nam giới gặp nhiều hơn nữ giới.
Biểu hiện nổi bật chủ yếu ở nửa thân dưới với đặc điểm ở dáng bộ. Bệnh nhân có dáng đi chân không vững. Tư thế bệnh nhân không vững và cách đáp ứng giữ thăng bằng cũng kém. Chi dưới có xu hướng co cứng hơn là cứng đờ kèm theo tăng phản xạ gân xương chủ yếu ở đầu gối và có đáp ứng duỗi ngón chân cái ở một bên hoặc hai bên.
Một số bệnh nhâncó biểu hiện rung giật bàn chân và khi ngồi động tác chi dưới thường chậm hơn chi trên. Đôi khi cũng thấy khởi động chậm khi bắt đầu bước đi.
Một số biểu hiện khác như đáp ứng nháy mắt khi gõ vào giữa trán hoặc phản xạ gan tay – cằm đôi khi kéo dài. Các triệu chứng giả dạng hành tủy cũng phổ biến nhất là ở các trường hợp bệnh đã lâu. Một số hiếm bệnh nhân bị mất hoặc giảm khứu giác. Đôi khi ở một vài trường hợp có thể thấy chi trên cũng bị ảnh hưởng nhẹ kèm phản xạ nhậy nhưng không bị run.
Bệnh tiến triển khác nhau tùy theo từng bệnh nhân. Một số trường hợp khởi bệnh cấp tính sau đó đôi khi các triệu chứng tiến triển tốt nhưng phần lớn có thể thấy bệnh duy trì hoặc suy thoái chậm. Tuy vậy, nhiều trường hợp khởi phát lặng lẽ và dáng bộ dần kém đi cùng với khó tiểu tiện và suy giảm nhận thức. Thường không thấy các triệu chứng dao động trong ngày và nói chung ít đáp ứng với điều trị bằng Levodopa hoặc chất đồng vận Dopamin.
BIẾN CHỨNG THƯỜNG GẶP VỚI NGƯỜI MẮC HỘI CHỨNG PARKINSON
Đặc điểm chủ yếu là các biến đổi mạch máu ở bệnh nhân. Thường gặp các tổn thương thiếu máu tại các diện ở não bao gồm chất trắng dưới vỏ, các hạch vùng đáy, đồi thị và phần trên thân não. Các biến đổi mạch máu chủ yếu ở thành mạch là thoái hóa mỡ – kính, thường ở các tiểu động mạch. Các biến đổi ở chất trắng thường kèm theo mất các tế bào thần kinh đệm ít gai.
Các bệnh nhân mắc hội chứng Parkinson do mạch máu thường có nhiều yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, ngưng thở khi ngủ, sử dụng thuốc lá. Các tổn thương chất trắng ở bệnh nhân có thể là hậu quả của nhiều đợt thiếu máu não dẫn đến đáp ứng viêm ở các diện não bị tổn thương gây sản sinh ra các gốc ôxy tự do làm tổn thương thêm hoạt động của tế bào não.
CÁCH ĐIỀU TRỊ NGƯỜI MẮC HỘI CHỨNG PARKINSON
Nguyên nhân chính gây ra hội chứng parkinson là do mạch máu não bị hẹp, có cục máu động khiến máu không thế nuôi dưỡng tế bào thần kinh. Trong y học cổ truyền thì 2 vị thuốc có thể sử lý được vấn đề này và được chứng minh là cực kì hiệu quả: Bài Thiên Ma Câu Đằng ẩm. Được phát triển gia giảm tạo thành sản phẩm PQA Dưỡng Huyết Thanh Não.
Đông y hỗ trợ điều trị người mắc hội chứng parkinson
Và hỗ trợ điều trị bệnh parkinson triệt để thì không thể thiếu bài thuốc đông y: Nhu Can Dưỡng Huyết, được nghiên cứu và phát triển thành sản phẩm PQA Thư Can Dưỡng Huyết hỗ trợ điều trị bệnh parkinson.
Chia sẻ của những bệnh nhân parkinson sử dụng thành công sản phẩm hỗ trợ điều trị bệnh parkinson.
KẾT LUẬN
Hội chứng Parkinson do mạch máu có thể là hậu quả của đột quỵ não do nhồi máu hoặc chảy máu. Tuy nhiên phần lớn là hậu quả của các tổn thương các chất trắng ở não và các ổ khuyết ở các nhân vùng đáy não. Sự đan xen của các triệu chứng và bệnh học giữa bệnh Binswanger và hội chứng Parkinson nửa thân dưới cho thấy có thể cả hai bệnh cảnh đó cùng thuộc về một bệnh lý và do đó cần tiếp tục nghiên cứu về các mặt lâm sàng, xét nghiệm và điều trị.
Bạn nên tham khảo thêm:
- Phương pháp mới điều trị bệnh parkinson
- Điều trị bệnh parkinson ở việt nam
- Thuốc điều trị bệnh run tay chân
- Thuốc điều trị bệnh parkinson
- Bệnh parkinson sống được bao lâu
- Cách chữa bệnh run tay chân ở người trẻ bằng thuốc nam
- Chữa bệnh parkinson bằng đông y
- bệnh parkinson có chữa được không
Mọi thắc mắc về bệnh parkinson vui lòng liên hệ:
Công ty cổ phần dược phẩm PQA
Địa chỉ: thửa 99 Xã Tân Thành, Huyện Vụ Bản, TP Nam Định
Hotline: 0912.760.377 – 0386.243.559